Xơ vữa động mạch: nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

Xơ vữa động mạch là bệnh tác động đến động mạch (cũng như tĩnh mạch nếu nó được phẫu thuật di chuyển đến nơi khác để làm chức năng của động mạch).

Về mặt đại thể, nó có biểu hiện là thành mạch máu trở nên “xơ cứng” bởi các sang thương được gọi là mảng xơ vữa phát triển trong thành mạch. Vào giai đoạn muộn, mảng xơ vữa có thể gây hẹp lòng mạch và làm hạn chế lưu lượng máu trong đó. Nó cũng có thể vỡ ra và trôi theo dòng máu làm tổn thương các mô và cơquan bên dưới. Bệnh này gặp nhiều hơn ở các nước phát triển như ở châu Âu, Mỹ, còn ở các nước đang phát triển như châu Á, Phi ít gặp hơn.

Bệnh cũng thường gặp ở người cao tuổi. Qua nghiên cứu thấy rằng chất nội tiết tố sinh dục của phụ nữ như oestrogen cũng có tác dụng giúp hạn chế được bệnh. Vì vậy tỷ lệ bệnh này ở phụ nữ trước tuổi mãn kinh thấp hơn ở nam giới (theo tư liệu của Mỹ). Phụ nữ tuổi từ 60 tuổi trở lên bị bệnh này cũng nhiều ngang bằng với nam giới. Tuy vậy những phụ nữ có sử dụng nội tiết tố oestrogen trong điều trị một số bệnh khác có tác dụng bảo vệ chống bệnh này tốt hơn (theo một số tài liệu của Mỹ).

I. TRIỆU CHỨNG BỆNH XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH

Ở giai đoạn sớm của bệnh thường không thấy có triệu chứng rõ. Dần dần về sau, các triệu chứng được phát sinh rõ hơn do dòng máu cung cấp cho các tạng trong cơthể bị giảm dần do động mạch bị hẹp dần gây tắc dần dòng máu.

Nếu động mạch vành cung cấp máu cho cơtim bị tắc dần thì sẽ xuất hiện những triệu chứng nhưđau tức ngực. Nếu động mạch vành bị tắc nghẽn hoàn toàn thì sẽ xảy ra cơn đau tim đột ngột gây tử vong

Nhiều cơn đột quỵ ở người già thường do động mạch cung cấp máu cho não bị xơ cứng và bị hẹp.

Trường hợp động mạch ở cẳng chân bị xơvữa thường có triệu chứng đầu tiên là cơn đau cơkiểu “chuột rút” do máu không được cung cấp đầy đủ ở cẳng chân.

Nếu bệnh xơ vữa động mạch kết hợp với bệnh rối loạn chất mỡ bẩm sinh di truyền thì chất mỡ có thể tích tụ ứ đọng lên các gân cơ tạo nên những cục dưới da nhìn thấy rất rõ.

Một trường hợp xơ vữa động mạch điển hình xảy ra vào cuối thời kỳ thơ ấu,thường có ở hầu hết các động mạch chính, nhưng không có triệu chứng và hầu hết các phương pháp chẩn đoán không được phát hiện được.

Nó thường trở nên có triệu chứng nguy hiểm khi can thiệp vào tuần hoàn vành, cung cấp máu đến tim, và tuần hoàn não, đưa máu đến não.

Xơ vữa động mạch là nguyên nhân nền tảng quan trọng của đột quỵ, cơn đau tim, các loại bệnh tim gồm suy tim ứ huyết và hầu hết các bệnh tim mạch nói chung. Mảng xơ vữa ở các động mạch cánh tay hoặc, thường gặp hơn, các động mạch chân có thể gây bệnh thuyên tắc động mạch ngoại biên.

Theo số liệu tại Hoa Kỳ năm 2004, khoảng 65% nam và 47% nữ có biểu hiện đầu tiên của bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch là cơn đau tim hoặc ngưng tim đột ngột (tử vong trong vòng 1 giờ sau khi triệu chứng khởi phát).

II. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH:

Tai biến phát triển bệnh xơ vữa động mạch qua nghiên cứu thấy có liên quan với tỷ lệ cholesterol trong máu của cơ thể mà chất này thực tế phụ thuộc vào chế độ ăn uống nuôi dưỡng và cả một số yếu tố về “gen” (genetic factor).

Vì tỷ lệ chất cholesterol liên quan tới chế độ ăn uống nên bệnh xơ vữa động mạch thường gặp ở người dân các nước Tây Âu vì ở đây người ta có chế độ ăn uống, có tỷ lệ chất béo cao hơn. Một vài bệnh khác như bệnh tiểu đường cũng liên quan chặt chẽ với tỷ lệ chất cholesterol cao trong chế độ ăn. Một vài bệnh có tính chất di truyền cũng có tỷ lệ chất mỡ cao trong máu (bệnh chất mỡ cao di truyền).

Ngoài yếu tố tỷ lệ chất cholesterol trong máu còn có một số yếu tố khác gây bệnh như: hút thuốc lá, không vận động thể dục đều đặn, tăng huyết áp và tình trạng thừa cân béo phì.

Các chất mỡ trong máu tích tụ dần ở lớp trong của thành động mạch và do chất mỡ làm cho thành động mạch dày hơn, kết quả là các động mạch bị hẹp dần lại và lưu thông máu bị cản trở.

Những người lớn tuổi (nam trên 45 tuổi, nữ đã mãn kinh, người hay nhậu nhẹt nhiều cũng có nguy cơbị xơvữa động mạch. Bị stress có thể làm tăng nhịp tim và tăng huyết áp.

Chuẩn đoán bệnh xơ vữa động mạch:

Ở giai đoạn sớm thì bệnh chưa có triệu chứng rõ nhưng lại cần phải chẩn đoán sớm để chữa trị có hiệu quả. Do đó người ta phải xét nghiệm máu để phát hiện tỷ lệ cholesterol trong máu cao, cũng cần phát hiện bệnh tăng huyết áp và bệnh tiểu đường. Vì đây đều là những yếu tố gây bệnh. Do đó ở các nước Âu, Mỹ, để chủ động phát hiện sớm bệnh này người ta cho xét nghiệm máu, đo tỷ lệ cholesterol máu ít nhất 5 năm một lần sau tuổi 20 (theo tài liệu của Mỹ)…

Nếu bệnh đã phát triển thì người ta thường cho làm những thử nghiệm về máu để có thể vừa phát hiện được cả tổn thương của động mạch và cả tổn thương của các nội tạng được cung cấp máu. Như vậy cả nguyên nhân và hậu quả đều được kiểm tra.

Ở bệnh viện có điều kiện, người ta làm những kỹ thuật hình ảnh cao như:

– Siêu âm Doppler (Doppler ultrasound scanning).

– Làm điện tâm đồ (ECG).

– Chụp động mạch vành.

Các kỹ thuật này giúp chẩn đoán và đánh giá chức năng động mạch tim, tình trạng dòng máu tuần hoàn.

III. ĐIỀU TRỊ XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH

Phương pháp điều trị tốt nhất hiện nay là phòng bệnh xơ vữa động mạch, làm giảm bớt tốc độ phát triển của bệnh và điều trị tích cực các bệnh gây xơ vữa động mạch như: Đái tháo đường, tăng cholesterol máu, tăng huyết áp.

Các biện pháp phòng bệnh mới nhất vẫn là chế độ ăn ít mỡ.

– Không hút thuốc lá.

– Luyện tập thể dục đều đặn nghiêm túc hằng ngày.

– Quan tâm duy trì cân nặng cho phù hợp với chiều cao của cơ thể.

Đó vẫn là những biện pháp tốt nhất để làm giảm sự phát triển của bệnh xơ vữa động mạch. Trường hợp vẫn có tình trạng sức khỏe tốt nhưng khám thấy tỷ lệ cholesterol máu cao thì vẫn phải ăn theo chế độ ít chất mỡ.

Đồng thời có thể dùng thuốc hạ cholesterol theo đơn của bác sĩ điều trị.

Đối với người đã bị một cơn đau tim, qua nghiên cứu người ta thấy rằng làm thấp tỷ lệ cholesterol máu vẫn có lợi kể cả tỷ lệ cholesterol vẫn trong giới hạn trung bình ở người khỏe mạnh.

Qua nghiên cứu thấy rằng người ta có thể sử dụng thuốc aspirin để làm giảm các tai biến đông máu ở lớp trong của động mạch bị hư tổn.

Trường hợp có thể bị biến chứng nặng thì người ta khuyên nên điều trị ngoại khoa như tạo hình mạch máu, tạo hình động mạch vành (coronany angioplasty).

Luôn nhớ rằng, một chế độ ăn uống và một lối sống lành mạnh có khả năng làm giảm sự phát triển của bệnh này ở nhiều người.

Theo một số nghiên cứu gần đây các nhà khoa học đã biết rằng: Chất Resveratrol có trong hạt nho đỏ hoặc rượu vang đỏ có tác dụng: hạ đường huyết, giảm cholesterol máu, chống đông máu, ngăn ngừa các bệnh do ăn nhiều chất béo gây nên.

Theo nghiên cứu của tiến sĩ David Sinclair tại ĐH Harvard tháng 11/2006, chất Resveratrol có tác dụng ngăn cản quá trình oxy hoá của Lipoprotein- chất gây nên mảng xơ vữa động mạch, ngăn cản sự hình thành LDL (Cholesterol xấu), làm tăng HDL (Cholesterol tốt) đến12%.

Ngoài ra Resveratrol còn ức chế hoạt tính của enzym alpha-Glucosidase do đó làm giảm sự hấp thu glucose của ruột non, làm hạ đường huyết. Resveratrol còn có tác dụng chống đông máu do làm giảm quá trình kết dính tiểu cầu. Thí nghiệm trên chuột cho thấy Resveratrol có thể làm tăng tuổi thọ của nhóm chuột béo phì lên đến 30% so với nhóm đối chứng.

Resveratrol trên thị trường có tên là BoniOxy1 hàm lượng 250 mg, được sản xuất tại Canada và đã được cấp giấy phép của Bộ Y tế. Bằng việc bổ sung thêm BoniOxy1 hằng ngày, bạn có thể hoàn toàn yên tâm khi phải đối mặt với bệnh xơ vữa động mạch, tăng mỡ máu hay đái tháo đường.

Thông thường hàm lượng Resveratrol có trong rượu vang đỏ là 3-5mg một lit nhưng với BoniOxy1, bạn không cần phải uống quá nhiều rượu vang, vì chỉ với hai viên BoniOxy1 mỗi ngày , cơ thể bạn đã có lượng Resveratrol tương đương với 50 lít rượu vang.

Ngoài ra, BoniOxy1 còn có tác dụng chống oxy hóa, ngăn ngừa các gốc tự do, chống viêm khớp, bảo vệ gan, bệnh Alzheimer và các bệnh thoái hoá thần kinh do tuổi tác…

Vì được đóng gói dưới dạng lọ 60 viên nên BoniOxy1 rất dễ dùng và tiện lợi. Mỗi ngày bạn uống hai lần, mỗi lần một viên vào buổi sáng và trưa, bạn nên dùng liên tục trong 2 – 4 tháng để có kết quả tốt nhất.