Chảy máu đường mật là một bệnh nặng có thể gây tử vong do mất máu nhiều. Các trường hợp tai nạn chấn thương vùng gan hoặc sau khi thực hiện các thủ thuật điều trị ngoại khoa can thiệp vào ổ bụng thường gây chảy máu đường mật. Việc hiểu biết về chảy máu đường mật rất có ích cho bệnh nhân, giúp phòng tránh hiệu quả các biến chứng nặng.
Chấn thương và sau các thủ thuật dễ gây chảy máu đường mật
Một vài nghiên cứu cho thấy tỷ lệ chảy máu đường mật trong gan là 52,7%, đường mật ngoài gan là 22,5%, túi mật là 23,1% và tuyến tụy là 1,7%. Nguyên nhân gây chảy máu đường mật có nhiều: trước đây phổ biến nhất là tai nạn, chấn thương; hiện nay, chấn thương sau các thủ thuật điều trị chiếm gần 70% các trường hợp chảy máu đường mật, trong đó dẫn lưu dịch mật qua da, cắt bỏ túi mật và nội soi sinh thiết gan hay gặp nhất. Ngoài ra, các kỹ thuật phẫu thuật nội soi cũng được coi là nguyên nhân gây chảy máu đường mật phổ biến. Các thủ thuật dễ gây chảy máu đường mật là: sinh thiết gan, dẫn lưu đường mật xuyên gan qua da, nội soi mật tụy ngược dòng, cắt bỏ khối u gan nguyên phát và di căn, nội soi cắt bỏ túi mật, tán sỏi qua da với cách sử dụng túi Dormio và đồng thời rửa đường mật với nước muối sinh lý dưới áp lực cao. Các nguyên nhân khác của chảy máu đường mật bao gồm: sỏi túi mật, viêm túi mật xuất huyết, viêm đường mật, bệnh mạch máu hệ thống như viêm đa động mạch, các bất thường mạch máu. Chảy máu đường mật có thể là do vỡ của phình động mạch thực sự của động mạch gan nuôi ống mật. Phình động mạch thực sự thấy ở 20% trường hợp là động mạch gan. Một nguyên nhân nữa là áp-xe gan do nhiễm ký sinh trùng đường mật ở các nước châu Á. Chảy máu đường mật còn gặp trong biến chứng của u gan, u túi mật hoặc ống dẫn mật.
Ba triệu chứng chủ yếu của chảy máu đường mật
Bệnh nhân bị chảy máu đường mật thường có 3 triệu chứng chủ yếu mà người ta gọi là tam chứng Hemobilia gồm: đau ở vùng thượng vị phải, vàng da và các dấu hiệu xuất huyết từ đường tiêu hóa trên là nôn ra máu, đi tiêu ra phân đen. Thế nhưng, tam chứng Hemobilia chỉ thấy trong 22 – 30% bệnh nhân bị chảy máu đường mật, số bệnh nhân còn lại không có đầy đủ 3 triệu chứng này.
Về mức độ chảy máu đường mật, người ta chia thành các thể: chảy máu đường mật thể nặng, thường đe dọa tính mạng bệnh nhân; chảy máu đường mật thể nhẹ, thường được điều trị bảo tồn và truyền máu; chảy máu đường mật mạn tính, chỉ thấy dấu hiệu bị thiếu máu. Lưu ý quan trọng là: chảy máu đường mật thường không xảy ra ngay lập tức sau khi bị thương hoặc chấn thương sau điều trị bằng thủ thuật. Các triệu chứng của chảy máu đường mật hay xảy ra vài tuần hoặc vài tháng sau khi bị thương. Theo một nghiên cứu: thời gian trung bình giữa các tổn thương không phải do điều trị thủ thuật và triệu chứng chảy máu đường mật là 23,5 ngày, gồm quá trình phát triển từ từ của phình mạch giả của động mạch gan, có thể dẫn đến lỗ rò động mạch – mật. Những cục máu đông gây ra ứ mật và sự thâm nhập của nó vào nhu mô gan bị tổn thương. Mật tự nó ức chế sự hình thành fibrine và tăng trưởng của mô hạt, dẫn đến kết quả là vùng hoại tử ngày càng tăng. Khi hoại tử đến thành của các ống dẫn mật, sẽ tạo ra các lỗ rò động mạch – mật và tĩnh mạch – mật. Siêu âm, chụp Xquang, chụp cộng hưởng từ… có thể thấy tổn thương chảy máu đường mật giúp ích cho chẩn đoán.
Chảy máu đường mật cần phân biệt với một số bệnh như: chảy máu do loét dạ dày tá tràng và chảy máu do tăng áp tĩnh mạch cửa. Theo đó, chảy máu đường mật liên quan đến triệu chứng đau bụng trên bên phải và vàng da, các triệu chứng chảy máu. Chảy máu đường mật còn phải phân biệt với sỏi mật, viêm đường mật thường có các triệu chứng đau, sốt, vàng da. Cục máu đông nằm trong ống mật có thể dễ chẩn đoán nhầm là sỏi mật trong chẩn đoán hình ảnh. Trường hợp bệnh ung thư gan nguyên phát, cũng có thể có sự thâm nhiễm vào đường mật với sự hiện diện của cục máu đông bao gồm các tế bào ung thư trong lòng ống mật.
Có thể gây biến chứng nghiêm trọng
Biến chứng nghiêm trọng nhất của chảy máu đường mật là mất máu, nếu mất máu nhiều có thể gây tử vong. Các biến chứng khác của chảy máu đường mật gồm: sự hình thành các cục máu đông trong ống dẫn mật, gây cản trở, tắc nghẽn, nhiều khi phải can thiệp phẫu thuật. Hậu quả của sự tắc nghẽn ống dẫn mật là sự giãn ống dẫn mật phía trên cục máu đông, gây vàng da, có thể tạo thành sỏi đường mật. Các biến chứng khác có thể xảy ra là: viêm đường mật, viêm túi mật và viêm tụy. Trên thực tế, nhiều trường hợp chảy máu đường mật thể nặng có thể dẫn đến các biến chứng nhiễm khuẩn và tử vong.
Điều trị thế nào?
Việc điều trị chảy máu đường mật phải tùy thuộc vào tình trạng lâm sàng của bệnh nhân với chảy máu đường mật và cường độ chảy máu để có hướng điều trị bảo tồn hay phẫu thuật. Một nghiên cứu cho biết: khoảng 43% bệnh nhân chảy máu đường mật được điều trị bảo tồn, 36% trường hợp được thực hiện các thủ tục thuyên tắc mạch bệnh lý. Các nghiên cứu khác trên chảy máu đường mật thể nặng cũng cho thấy, việc điều trị bảo tồn đã được sử dụng thường xuyên, phổ biến ở hầu hết các nước. Hiện nay, phương pháp phổ biến nhất để điều trị chảy máu đường mật là thuyên tắc lỗ rò động mạch – mật hình thành. Phương pháp thuyên tắc này được chỉ định trong các trường hợp: chảy máu đường mật lượng nhiều đòi hỏi phải truyền máu; chảy máu đường mật mạn tính dẫn đến thiếu máu và các ca điều trị bảo tồn thất bại. Hiệu quả của thủ thuật này rất khả quan, thành công từ 80 – 100% số bệnh nhân được điều trị.